lý thuyết và thực hành

3. Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam (2011), Nghiên cứu văn hóa - lý thuyết và thực hành (bản dịch của Đặng Tuyết Anh từ công trình của Chris Barker), NXB. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 4. Tổng hợp lý thuyết bao gồm những nội dung sau: Bổ sung tài liệu, sau khi phân tích phát hiện thiếu hoặc sai lệch. Lựa chọn tài liệu chỉ chọn những thứ cần, đủ để xây dựng luận cứ. Sắp xếp tài liệu theo lịch đại (theo tiến trình xuất hiện sự kiện để nhận dạng động thái); sắp xếp tài liệu theo quan hệ nhân - quả để nhận dạng tương tác. 1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về gắn lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, con người muốn cải tạo được thế giới cần phải có những hiểu biết về nó, nhưng những hiểu biết ấy không có sẵn trong con người. Thực hành về thành ngữ, điển cố tóm tắt Lý thuyết và Bài tập vận dụng có lời giải chi tiết phần Tiếng Việt - Tập làm văn lớp 11 giúp các bạn học tốt môn Ngữ Văn 11 hơn. Mời các em cùng tham khảo. Lý thuyết và bài tập Thực hành về thành ngữ, điển cố Vì thế thông qua học phần tiếng Việt thực hành, em đã chọn đề tài tìm hiểu về lý thuyết viết câu, cách tạo lập nên một câu, cấu tạo của câu trong tiếng Việt, đồng thời thực hành viết lại câu để thể hiện kết quả quá trình nghiên cứu của bản thân. Với hi Site De Rencontre Totalement Gratuit A 100. Đối với khoa học, thì người ta dùng thí nghiệm và thực nghiệm, để chứng minh cho lý thuyết của mình là đúng. Còn về việc tu tập rèn luyện để có tư tưởng, thì người ta phải cần có kinh nghiệm và trãi nghiệm, trong cuộc đấu tranh với cuộc đời của chính mình. Vì kinh nghiệm là bài học được rút ra từ ý thức, và nó sẽ tạo ra kỷ năng tay nghề chuẩn xác cho chúng ta trong lao động. Còn trãi nghiệm là những thắng lợi về tinh thần, thông qua những đau khổ đắng cay trong tình cảm, tình yêu của mình. Chắc ai cũng biết giữa lý thuyết và thực hành, đều có một khoảng cách nhất định. Và cái “khoảng cách” đó là rất dài rất xa, vì nó là vô hình mà. Đó chính là “khoảng cách” giữa hai hàng chữ trên trang sách, mà chúng ta đọc mỗi ngày. Nếu ai đọc được những hàng chữ vô hình ghi ở chỗ đó, thì mới nhìn thấy được cái “khoảng cách” giữa lý thuyết và thực hành như thế nào. Lý thuyết luôn luôn có một “khoảng cách” với thực hành, dài ngắn khác nhau, là tùy vào nhận thức của mỗi người, chứ không phải lý thuyết là khác với thực hành. Vì nếu bạn thấy nó giống với thực hành là sai, mà bạn lại thấy nó khác với thực hành, thì cũng là sai luôn. Tuy nhiên nếu không có lý thuyết định hướng trước, thì thực hành sẽ không biết sẽ đi về đâu và làm gì. Nhưng khi chúng ta thực hành y chang với lý thuyết, thì sẽ không thể thấy được cái “khoảng cách” đó. Và nếu chúng ta học và làm như thế, thì sự học tập lý thuyết, và công việc lao động thực hành của chúng ta, sẽ không có kết quả cao hoặc là sẽ thất bại thôi. Vì phải học tập và nắm vững lý thuyết rồi mới thực hành, thì mới có kết quả tốt được. Vì giữa lý thuyết và thực hành, luôn có một “khoảng cách” để đối chiếu và so sánh, kiểm chứng lẫn nhau, thì chúng ta mới hiểu đúng và làm đúng, trong những yêu cầu thực tế của công việc. Bởi vì trong lý thuyết chúng ta rất khó nhận ra chử “thời”. Vì cũng việc đó mà chúng ta làm trong trường hợp này thì đúng, nhưng làm trong trường hợp khác là sai. Vì chử “thời” này là rất quan trọng. Vì nó không thể ghi ra văn bản được, mà nó chính là trãi nghiệm và kinh nghiệm của mỗi cá nhân con người chúng ta, thông qua việc thực hành lao động của chính mình. Vậy chúng ta có thể nói rằng, “khoảng cách” giữa lý thuyết và thực hành, đó chính là chữ “thời” vậy. Và chữ “thời” này chỉ có thể sinh ra ở giữa hai chữ “kinh nghiệm và trãi nghiệm” mà thôi. Vì người có kinh nghiệm sống từng trãi trong cuộc đời, đôi khi không học hành gì cả nhưng lại thành công rất lớn. Ngược lại những học giả, những con nghiện sách vở cứ sống mãi trong các tinh cầu lạnh giá, thì làm cái gì cũng thất cơ lỡ vận hết trơn. Vậy hiểu được chữ “thời” là nắm được cơ hội thành công. Tuy nhiên muốn có được điều đó, thì chúng ta phải sống thật mạnh mẽ, và phải giỏi về lý luận cũng như thực hành lao động liên tục, miệt mài không ngừng nghỉ. Đối với khoa học, thì người ta dùng thí nghiệm và thực nghiệm, để chứng minh cho lý thuyết của mình là đúng. Còn về việc tu tập rèn luyện để có tư tưởng, thì người ta phải cần có kinh nghiệm và trãi nghiệm, trong cuộc đấu tranh với cuộc đời của chính mình. Vì kinh nghiệm là bài học được rút ra từ ý thức, và nó sẽ tạo ra kỷ năng tay nghề chuẩn xác cho chúng ta trong lao động. Còn trãi nghiệm là những thắng lợi về tinh thần, thông qua những đau khổ đắng cay trong tình cảm, tình yêu của mình. Và nếu bạn có lý thuyết rồi, mà thực hành và có được kinh nghiệm và trãi nghiệm tốt, thì bạn sẽ biết được lý thuyết đó đúng hay là sai liền. Vì nếu lý thuyết nào phản khoa học và trái tự nhiên, thì lý thuyết đó là sai. Vì làm việc có khoa học thì bạn mới có kinh nghiệm được, cũng như khi bạn làm điều đó, trong một tinh thần hứng thú đam mê rất tự nhiên, thì mới có kết quả cao chứ. Và điều đó chứng tỏ rằng công việc của bạn làm rất khoa học, và phù hợp với tự nhiên, vì bạn đã áp dụng đúng lý thuyết rồi. Do đó học đi đôi với hành, là rất cần thiết cho sự thành bại của đời người. Vì chính hai điều này thông qua việc học tập và lao động đúng hướng, thì nó sẽ phát sinh trí tuệ và gầy dựng hành trình đạo đức hướng thiện cho chúng ta. Vì thật sự khi bạn đối diện với cuộc đời là vô hình mù mịt, nhưng khi bạn có tin yêu và học tập lao động miệt mài, thì cái màn đêm vô hình mù mịt kia, dần dần sẽ được khai sáng. Vì bạn phải có đạo đức trong công việc, trong nghề nghiệp, thì bạn mới có đạo đức với con người được. Vì rằng công việc bạn làm phải thõa mãn cho bạn, và cho cả đối tác nữa thì mới gọi là làm tốt được. Và chính điều đó không biết sẽ thu lợi được bao nhiêu, nhưng nó đã không làm bạn hối tiếc hay ân hận cắn rức gì là được rồi. Và thông qua việc học tập và lao động phấn đấu của mình, mà đã tạo ra tâm thế vững chắc như một cây cao, có gốc rễ mạnh mẽ chịu đựng được tất cả song gió của cuộc đời, thì đó là bạn đã thành công và hạnh phúc rồi. Vì thành công và hạnh phúc là có ngay đây trong hiện tại này, mà bạn chỉ cần bước đến cầm lấy nó lên thôi. Vì bên trong con người chúng ta, ai cũng có một trữ lượng hạnh phúc rất lớn, nhưng chỉ có điều là chúng ta không biết đó thôi, nên chúng ta mới đau khổ quá chừng. Và vấn đề là mỗi bước đi của chúng ta đến thành công và hạnh phúc, thì phải luôn học tập và thực hành lao động miệt mài không ngơi nghỉ. Vậy thông qua học tập lý thuyết và thực hành đúng đắn, thì nó sẽ đem lại cho chúng ta sự hiểu biết đúng đắn, với các hệ giá trị đích thực trên đời này, một cách không ảo tưởng hoang đường như trong mơ. Và thông qua đó chúng ta cũng rút ra được thái độ sống hòa hợp với mọi người, với môi trường làm việc của mình trong xã hội… Vậy thông qua lý thuyết và thực hành, sẽ giúp cho chúng ta nhìn thấy mình trong tha nhân, và cũng nhìn thấy thiên hạ có trong trái tim mình. Và chính điều này đã cho chúng ta thấy được cảm nhận của người khác, nên chúng ta có khả năng cảm thông với nhau hơn. Còn những kẻ chỉ biết có mình, mà chẳng hề quan tâm đến cảm giác của người khác, thì tất nhiên trong việc học và thực hành của bạn đã sai rồi. Vì bạn được gọi là “thắng lợi” thì bao giờ bạn cũng có tư duy mở, và một tấm chân tình vị tha rộng lượng. Vì chính điều đó là dấu hiệu cho thấy rằng bạn đang phát triển không ngừng, chứ không phải là sắp bế tắc. Ngược lại bạn làm gì không biết, nhưng bạn sống trong đau khổ ích kỷ quá, thì bạn đã thất bại rồi. Vì chỉ có mình mới có khả năng đem lại hạnh phúc hay khổ đau cho chính mình mà thôi. Vì sự nghiệp lớn nhất trên đời này, là cải tạo đời sống và thay đổi con người mình, để tiến đến sống trong một môi trường sống đầy đủ và hạnh phúc như ý. Vậy cái “khoảng cách” giữa lý thuyết và thực hành là gì? Đó chính là cái “khoảng nối” giữa tâm và vật, giữa khoa học và tự nhiên. Do đó bây giờ chúng ta cần đi sâu vào tìm hiểu hai cái “khoảng nối” đó là như thế nào. Vậy cái “khoảng nối” giữa tâm và vật của chúng ta có gì? Đó chính là sự nhận thức sai lệch của tâm, đối với sự vật về thật tánh của nó. Vì nếu bạn chỉ quan sát sự vật bên ngoài thôi, thì bạn sẽ thấy nó rất đơn giản như một vật đứng yên, vô tri vô giác được gọi là vật chất, và có tính đơn chất thôi. Nhưng khi chúng ta nhìn sâu vào thực thể của nó, thì chúng ta sẽ thấy nó được tạo ra bởi rất nhiều chất khác nhau. Và đó chính là con đường khám phá vật chất của khoa học. Và vì nó do nhiều chất kết hợp lại mà thành, nên nó sẽ không đứng yên như chúng ta vẫn tưởng, theo quan sát hàng ngày của chúng ta đâu. Do đó cái “khoảng nối” giữa tâm và vật chính là thật tánh của các pháp. Và khi chúng ta học lý thuyết thì sao. Vì lý thuyết là như thế, nhưng khi chúng ta áp dụng thì nó sẽ tùy thuộc vào từng cấp độ, nhận thức cao thấp khác nhau của mỗi người, nhận thức về nó như thế nào. Do đó khi cùng học một trường, và ra trường làm cùng một công việc như nhau, nhưng thành quả đạt được của mỗi người là luôn khác nhau. Vì nếu như ai nắm được cái căn bản yếu tính cốt lõi của lý thuyết, thì sẽ biết vận dụng lý thuyết đó một cách linh hoạt và chính xác hơn. Vì đơn giản lý thuyết chỉ là phương tiện để cải tạo đời sống mà thôi. Thì nó chính là phương tiện lớn nhất, để tạo ra rất nhiều phương tiện mới khác nữa, để ứng dụng vào việc khai thác vật chất có lợi cho ta. Còn nếu bạn chỉ hiểu một cách hình thức, thông qua các khái niệm chỉ dẫn của lý thuyết thôi, thì bạn sẽ không biết cách biến hóa, để áp dụng trong cuộc chiến đấu của mình, và do đó chắc chắn thành công của bạn cũng sẽ rất hạn chế vậy. Còn “khoảng cách” giữa khoa học và tự nhiên là gì? Đó chính là cái “khoảng nối” giữa các pháp hữu vi và vô vi. Vì khoa học là để khám phá cái thế giới hữu vi, còn tự nhiên thì được điều khiển bằng đạo lớn vô vi. Do đó khoa học là sự nghiên cứu khám phá vật chất, có tính chính xác tuyệt đối, theo tư duy logich hợp lý đi tới phía trước, theo đường thẳng một chiều mãi. Và nó chỉ giải quyết được một mặt của cuộc sống con người thôi. Còn tự nhiên thì vận hành qua lại như con lắc đồng hồ, nên nó có tính tương đối. Và đó là sự vận hành đi tới, rồi lại đi lui, và đi lui rồi lại đi tới. Có nghĩa là nó đi tới thuận chiều bên này và đi lui ngược chiều bên kia, nên nó luôn có trạng thái cân bằng, trong hai mặt của nó nếu gộp chung lại làm một. Và sự vận động đó, thì được biểu thị bằng một đường tròn gọi là minh triết, gồm cả vô vi và hữu vi luôn. Vậy minh triết vốn đã có chứa cả khoa học trong đó rồi. Còn khoa học thì vẫn còn thiếu một chiều nữa, mà nó không thể dùng thực nghiệm, thí nghiệm để chứng minh được. Đó chính là chiều không gian tâm linh, tâm thức của con người mang tính nhân bản. Do đó nếu khoa học mà cứ đi tới mãi, là một sai lầm lớn luôn. Vì khoa học có thể sinh ra những phát minh lớn, mà nó không phù hợp với tính nhân bản của con người, thì nên dừng lại đi. Vì thực chất con người dùng khoa học như là một phương tiện để phục vụ cho mình, chứ không phải là để hãm hại chính mình. Do đó khoa học là để phục vụ đời sống con người, còn tính nhân bản là để hướng đời sống đó, đi tới chỗ sinh tồn cho con người có ý nghĩa cao nhất. Cho nên “khoảng cách” giữa khoa học và tự nhiên, chính là tính nhân bản vậy. Vì thế trên bề mặt văn bản lý thuyết thì sẽ có giới hạn. Và nhân bản chính là cái hướng mở rộng ra của nó là vô hạn. Cho nên bất cứ lý thuyết gì, đều phải có cơ sở khoa học và hướng đến tính nhân bản, thì mới có giá trị đích thực. Và khi chúng ta thực hành theo lý thuyết đó, thì mới phù hợp với khoa học và tự nhiên. Và đó chính là sự tồn tại của con người, đã được bảo vệ bằng cái thiện. Vì thế tính nhân bản là có nội hàm rất sâu xa, mà chúng ta muốn diễn tả nó bằng ngôn ngữ thì cũng không hết được. Và nếu ai nắm được cái lý thuyết có tính khoa học và nhân bản này, thì người đó sẽ có tự do trong thực hành một cách chính xác, linh hoạt và tốt đẹp nhất. Do đó như đã nói ở trên, khoảng cách giữa lý thuyết và thực hành gồm có ba thứ. Thứ nhất là chữ “thời”, thứ hai là thật tánh của các pháp, thứ ba là tính nhân bản. Vậy biết thật tánh của các pháp, là biết rõ đối tượng là như thế nào. Có nghĩa là chúng ta đã biết rõ lý thuyết đó có cơ sở khoa học là như thế nào rồi. Còn cái biết về nhân bản, là mình phải biết rõ về mình nữa. Và khi chúng ta biết rõ về lý thuyết rồi, cũng như chúng ta biết mình cần gì ở cái lý thuyết đó. Thì chúng ta sẽ biết cách thu nhận nó, chính xác với như cầu của chúng ta hơn. Sau đó chúng ta thực hành nó thì áp dụng chử “thời” vào nữa là xong. Và đó chính là khi chúng ta đã “biết mình biết ta” rồi, thì áp dụng nó đúng thời điểm của thực tế, thì coi như là thành công thôi. Ví dụ như bây giờ chúng ta đi nghe quý thầy giảng pháp, nghe nói tới cái thiện cái ác, ăn chay làm lành, tụng kinh niệm Phật, rồi kinh này kinh kia đủ các pháp hết. Và chúng ta nghe như vậy, thì đa số chúng ta đều nghĩ đó chính là Phật pháp rồi. Nhưng đối với trình độ của những người xuất gia, dấn thân cầu pháp giải thoát của Phật, thì phải biết rõ pháp mà mình đang nghe đó là pháp gì? Và nó có thể đưa mình đi theo con đường giải thoát được hay không? Vì Phật pháp mới nghe qua nào là trí tuệ, từ bi hỷ xả, nhân quả nghiệp báo, này kia thì thấy cũng suông rồi, và đó chỉ là lý thuyết thôi. Nhưng chúng ta phải biết rằng Trong Phật pháp cũng có pháp tục đế và pháp chân đế, thuộc lý tưởng và chân lý. Và người nào muốn tu hành giải thoát thật sự, thì phải hướng vào con đường tu chứng theo pháp chân đế, thì mới được. Vì tận cùng của pháp tục đế, là tu phước đức hữu vi tới cỏi trời là hết. Còn tận cùng của pháp chân đế, là tu tới cỏi Phật giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Do đó chúng ta nghe pháp tục đế, và phải ráng thấu hiểu nó và bỏ đi, rồi sau đó chúng ta nghe pháp chân đế, thì mới áp dụng tu chứng được. Vì pháp tục đế chẳng qua chỉ là chỉ để an ủi, theo kiểu dùng tha lực để đối phó tình huống thôi. Còn pháp chân đế thì nếu bạn không chứng thiền, thì sẽ không hiểu được, vì nó là pháp tự lực mà. Vì thế cho nên pháp chân đế là rời khỏi lý thuyết rồi, nên nó tự do bay cao trên trời, không cần xác định phương hướng gì hết á. Vì khi chúng ta thiện mà biết mình thiện, thì đó là bất thiện rồi. Do đó khi mình làm việc thiện, với cái tâm vô ngã không biết mình làm thiện gì hết, thì đó mới chính là cái thiện chân đế “vô sở trụ”. Và cái thiện đó là giải thoát, vì tâm chúng ta rỗng rang nhẹ nhàng quá mà. Vì cái thiện đó là không có phan duyên tác ý, mà nó tự nhiên như mây bay trên bầu trời vậy. Cái đó chính là cái thiện tĩnh lặng bên trong chân tâm niết bàn. Là cái gốc của thiện ác tục đế thế gian. Và cái thiện này là vô tác, vô ngã nên không nói ra được đâu. Còn cái thiện mà chúng ta phân biệt được bằng ý thức, hay được ghi trong sách, hay nghe các thầy giảng, thì đó là cái thiện tục đế. Cái thiện này chỉ ngang với đạo đức học của ông Khổng Tử thôi. Đó là các pháp hữu vi của đời sống, vì ông Khổng Tử này chẳng biết tý gì tới pháp vô vi hết á. Và đó cũng chính là “pháp nạn” của Phật Giáo Trung Quốc. Vì chúng ta tu theo Phật, nhưng lại tu nhầm vô pháp của ông Khổng Tử, thì hỏi làm sao giải thoát thành Phật được đây trời. Do đó Phật Giáo Việt Nam ta, thì có gốc từ Phật Giáo Tổ Sư của Trung Quốc, nên cũng chẳng khá gì hơn đâu. Và pháp Phật kiểu đó là cách tu “thập thiện” để có phước đức hữu vi, giàu sang may mắn trong hiện đời này thôi. Nhưng phước đức hữu vi đó cũng là cái nhân của đau khổ, và sinh tử luân hồi về sau. Cho nên mấy cái gọi là tu “thập thiện” đó, nếu đem so với cái thiện chân đế thì nó là bất thiền rồi. Vì nó là cái thiện để đối nhân xử thế bên ngoài đời sống con người mà thôi. Tuy nhiên cái thiện tục đế, nó sẽ giúp chúng ta hướng thiện thì cũng tốt rồi. Và từ tích môn bên ngoài, chúng ta hướng thiện từ từ đi vào bản môn bên trong, rồi sẽ gặp cái thiện chân đế giải thoát kia thôi. Do đó tu phước đức tới cỏi trời thì vẫn chưa chạm tới chánh pháp đâu. Vì thế cũng là đi tu và khi chúng ta nghe pháp ào ào như vậy, nhưng khi chúng ta thực hành thì ứng dụng nó không được. Và cứ thế là chúng ta tu hoài tu mãi vẫn nằm ỳ một chỗ luôn. Vậy phải tu làm sao để biết được cái “khoảng cách” từ lý thuyết tới thực hành trước cái đả. Và chúng ta phải biết rõ trình độ của mình đang ở đâu, và biết pháp kia là pháp cở nào thì mới được. Sau đó nếu thấy hướng đi phù hợp với mình rồi, thì cứ thế thông thả mà đi lên thôi. Hí hí! ……………………………………………. Cái “khoảng cách” từ lý thuyết tới thực hành, đối với người này thì rất gần, nhưng đối với người khác thì rất xa. Do đó tuổi tác lâu mau không phải là quyết định nhanh chậm của con đường tu hành. Mà cái chính là chúng ta có biết áp dụng lý thuyết vào thực hành cho đúng hay không mà thôi. Có thời gian tôi làm việc cho một consulting firm khá nổi tiếng top 3 consulting firm lớn nhất thế giới, khách hàng của công ty trải rộng trong nhiều lĩnh vực tài chính, technology, telecommucation,… ngoài mảng về chiến lược thì chúng tôi có làm tư vấn cả về trải nghiệm người dùng CX/UX. Câu chuyện hôm nay tôi kể có liên quan nhiều đến khía cạnh UX này. Nói thêm một chút về mô hình công ty này vì nó khá thú vị và hình như chưa có ở Việt Nam – ít ra là trong ngành UX. Công việc chủ yếu của chúng tôi là đến trực tiếp trụ sở của khách hàng và làm việc gọi là onsite, thường là mỗi người sẽ được giao một dự án và trực tiếp lead team của khách hàng gọi là inject. Tùy theo industry và quy mô của công ty khách hàng mà khi thì chúng tôi sẽ lead một team Dev, khi thì sẽ lead một team UX Design đóng vai trò như một UX Lead, thậm chí có trường hợp là one man show luôn tự xử hết. Đến khi deliver sản phẩm là coi như xong dự án, lại tiếp tục đi dự án khác. Industry tôi phụ trách là FinTech Financial Technology nên thường môi trường là các ngân hàng và thường làm việc chung với team UX Design. Công việc này khá thú vị vì 1. Được làm việc với rất nhiều môi trường khác nhau, nhiều ngành nghề khác nhau. 2. Khác với mô hình Agency, Consultancy khi đến làm việc với khách hàng là với tư cách là một chuyên gia nên rất được cưng chiều và trao rất nhiều quyền. Chính điều này tạo điều kiện rất thuận lợi cho chúng tôi làm việc và dĩ nhiên expectation của khách hàng cũng rất cao. 3. Đi rất nhiều nơi nhờ thời gian làm việc ở đây mà tôi được đi nhiều nơi ở nước Úc và thường đi lại ăn ở rất sướng. Đổi lại thì kỳ vọng của khách hàng đặt lên vai cũng rất lớn. Do tính chất công việc là phải tự thân lead dự án của khách hàng nên trước giờ công ty tuyển rất kỹ, trung bình các bạn đồng nghiệp của tôi có tối thiểu 10-15 năm kinh nghiệm trực tiếp trong ngành. Tuy nhiên thời gian gần đây công ty phát triển quá nhanh, mà nhân lực lại không đủ dẫn đến yêu cầu tuyển dụng giảm đi trước đây trung bình khoảng 5 vòng thì bây giờ còn 3 vòng, trước đây sau khi tuyển dụng phải có gần 1 tháng induction mới ra field thì gần đây chỉ sau một tuần cá biệt có trường hợp vài ngày là ra field luôn. Vì tình hình như vậy nên phát sinh một câu chuyện làm tôi rút tỉa được một kết luận muốn chia sẻ với mọi người sẽ kết luận cuối bài. — Cách đây không lâu, tôi phụ trách tư vấn một dự án khá lớn cho ANZ vì dự án này mà tôi có được nửa năm ở Melbourne. Giai đoạn gần cuối dự án công ty tăng cường thêm một người nữa để phụ tôi một mảng trong dự án. Vì ANZ xem bạn là consultant nên sau vài ngày đầu tiên họ bắt đầu giao cho bạn lead một team. Tôi cũng không để ý nhiều vì bản thân cũng phải đang chạy trối chết để kịp deadline bên mảng của tôi, thế là để bạn tự bơi. Sau này nhìn lại mới nhớ là bạn đã rất stress, gần như ngày nào cũng trong trạng thái căng thẳng, vò đầu bứt tai ở lại văn phòng rất trễ. Crisis bắt đầu là khi hầu hết những lần bạn facilitate hay present các concept thì thay vì manage và facilitate các stakeholders bạn lại bị các stakeholders của khách hàng quay như chong chóng. Đỉnh điểm là trong một lần bạn present một module quan trọng trong dự án và như mọi lần bị các stakeholder quay cho đến khi Innovation Director có mặt ở đó và vì quá bực mình đã gửi một email complaint về công ty lưu ý là vị trí Innovation Director của một ngân hàng lớn rất-rất-rất là bự và bạn này mà buồn thì không tốt tí nào cho công ty. Sau đó thì các bạn Director bên công ty tôi phải nhảy vô và dập lửa, chuyện dập lửa xin không tả nhiều ở đây. Nhưng nói chung là đợt đó là một trong những crisis lớn của công ty. Sau này hỏi thì mới biết là background của bạn cũng không phải là tệ. 7 năm làm việc ở một số công ty, sau đó thì hơn 5 năm dạy về mảng này ở một trường đại học ở Anh, rồi 2 năm gần nhất thì là giảng viên của một trường đại học khác khá nổi tiếng ở Úc – xin phép không nêu tên. Vấn đề ở đây là suốt hơn 7 năm gần nhất thì bạn chỉ dạy học và những kiến thức bạn có chỉ là lý thuyết. Vì vậy khi đụng dự án thực tế thì bạn bị vấn đề, rồi càng bê lý thuyết cứng ngắt thì lại càng chết. — Bản chất công việc UXD về cơ bản chỉ có 3 bước Think > Build > Test > Improve tạm dịch Ý tưởng > Xây dựng > Kiểm tra > Nâng cấp và cứ vậy lặp đi lặp lại. Cũng như bản chất công việc UX, cách trau dồi kiến thức của người làm UX cũng tương tự như vậy. Học cũng như bước đầu tiên Think, không quan trọng là bạn đã học bao nhiêu trường, bao nhiêu khóa, đọc bao nhiêu quyển sách về UX, xem bao nhiêu bài nói chuyện của các chuyên gia trên YouTube,… tất cả chỉ là lý thuyết và đều vô nghĩa nếu không có các bước trải nghiệm thực tế còn lại. Đặc biệt là trong ngành này các kiến thức vừa học xong thì đã cũ. Cho nên – Dành cho các bạn tự học, đừng chỉ suốt ngày tập trung đọc lý thuyết, hãy áp dụng ngay những kiến thức mình có được lên những sản phẩm mình đang làm việc. Nếu không có thì tạo ra những sản phẩm theo dạng hobby rồi ứng dụng. Một thử nghiệm fail giá trị gấp nhiều lần đọc 10 bài viết do người khác kể lại. – Đặc biệt với những ai đi dạy hoặc đi chia sẻ, nên chia sẻ từ những kinh nghiệm thực tế chứ nếu chỉ ngồi đọc xong đi nói lại thì “tam sao thất bản” người nghe còn chết nặng hơn. Đang tải.... xem toàn văn Thông tin tài liệu Ngày đăng 04/06/2015, 0955 Từ xưa đến nay, mỗi quan hệ giữa lí thuyết và thực hành trở thành quan tâm của mọi người. Xuất phát từ thực tế của một nền kinh tế chậm triển trước kia, ông cha ta nói Trăm hay không bằng tay tục ngữ trên nhằm đề cao vai trò của thực hành quan trọng hơn lý thuyết. Vậy nội dung ấy đúng hay sai? Ngày nay ta cần hiểu quan niệm như thế nào cho hợp lí? Nghị luận xã hội về lý thuyết và thực hành Từ xưa đến nay, mỗi quan hệ giữa lí thuyết và thực hành trở thành quan tâm của mọi người. Xuất phát từ thực tế của một nền kinh tế chậm triển trước kia, ông cha ta nói "Trăm hay không bằng tay quen''. Câu tục ngữ trên nhằm đề cao vai trò của thực hành quan trọng hơn lý thuyết. Vậy nội dung ấy đúng hay sai? Ngày nay ta cần hiểu quan niệm như thế nào cho hợp lí? Câu tục ngữ có hai vế "Trăm hay" là cách nói mộc mạc, có nghĩa là biết hàng trăm điều tức là biết nhiều, lí thuyết giỏi. Còn "tay quen" có nghĩa là thaọ việc, làm thuần thục, nói cách khác là thực hành giỏi, thành thạo công việc. Như vậy, câu tục ngữ "Trăm hay không bằng tay quen" muốn khẳng định biết lí thuyết nhiều cũng không thể bằng thói quen thành thạo công việc. Nếu lấy chất lượng, số lượng sản phẩm được làm ra để làm thước đo năng lực, để đánh giá người lao động thì ý nghĩa câu tục ngữ trên là đúng. Bởi thực hành mới trực tiếp sản xuất ra hàng hoá, mới làm ra của cài vật chất. Và tất nhiên phải quen tay mới thuần thục công việc cho nên người lao động, công nhân mới làm ra những sản phẩm có chất lượng và có số lựợng cao. Trong thực tế, đã có biết bao người hiểu rộng, biết nhiều lí thuyết nhưng khi bắt tay vào thực hành lại lúng túng, dẫn đến thất bại. Ngược lại, có những người không được học hành, không được đào tạo ở một trường lớp nào cả, nhưng với những thực tế lao động, từ những kinh nghiệm trong quá trình rèn luyện được tích luỹ họ trở thành người có tay nghề giỏi. Đó là những người thợ máy lâu năm, những thợ thủ công lành nghề theo kiểu cha truyền con nối nên họ có tay nghề cao, làm việc có hiệu quả ít ai sánh được. Vì lẽ đó mà cha ông ta đã định vai trò quan trọng của thực hành trong đời sống hàng ngày. Đồng thời qua đó ông cha ta cũng có thái độ trân trọng, đề cao người lao động trực làm ra của cải vật chất cho xã hội tiêu dùng. Đối với một nước nông nghiệp lạc hậu thì nội dung câu tục ngữ trên có thế chấp nhận. Tuy nhiên, bên cạnh điều chấp nhận đó, ta cũng thấy rõ mặt chưa đúng của câu tục ngữ. Bởi lẽ, thói quen kinh nghiệm, thành thạo công việc dù có quan trọng như thế nào cũng không phải là tất cả. Muốn tinh thông nghề nghiệp thì ngoài "quen tay" còn phải có "trăm hay" mới được. Nếu như chỉ "quen tay” thành thạo việc thì người thợ thủ công không thể chuyển công việc của sang sản xuất bằng máy móc để có năng suất cao được. Như vậy tư tưởng “trăm hay không bằng tay quen" không chỉ thể hiện qua việc coi thường học vấn coi thường khoa học mà còn thể hiện tư tưởng tự mãn với thói quen sẵn có của mình; đồng thời nó cũng biểu hiện một khuynh hướng bảo thủ. Bởi vì thành quả của "tay quen" ấy, con người không dễ gì chịu tiếp thu tư tưởng mới, kĩ thuật mới bao giờ. Đó là một trơ ngại cho sự tiến bộ, cho thời đại Khoa học kĩ thuật và kinh tế tri thức. Ngày nay trong thời đại khoa học kĩ thuật đang phát triển mạnh thì sự hiểu tri thức, "trăm hay" của con người rất là cần thiết. Bởi có "thực hành" nào không cần đến "lí thuyết" đâu. Có nắm vững lí thuyết ta mới thực hành dễ và đạt kết quả cao. Lí thuyết chỉ đạo cho thực hành, và thực hành là để nghiệm lại, bổ sung và nâng cao hoàn thiện cho lí thuyết. Lí thuyết giỏi với thành thạo việc sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển nhanh hơn, hiệu quả hơn. Vì vậy ta không nên xem nhẹ bất cứ một mặt nào mà phải kết hợp tác hai chiều giữa lí thuyết và thực hành. Ta cũng nên hiểu rằng có học mà người thực hành chỉ là lí thuyết suông. Thực hành mà không biết lí thuyết thì việc gì cũng gặp khó khăn. Do đó ta mới đánh giá đúng mức mỗi liên quan giữa lí thuyết và thực hành. Tóm lại, câu tục ngữ "Trăm hay không bằng tay quen" tuy có đề cao vai trò của kĩ năng thực hành, đề cao năng lực thành thạo công việc thì đó cũng là khía cạnh rất có ý nghĩa trong việc đào tạo người lao động mới. Và đế đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh chóng của xã hội ngày nay, ta thấy phương châm "Học phải đi đôi với hành", "trăm tay" đi liền với "tay quen" là đúng đắn và phù hợp nhất. Hiểu và thực hiện tốt được điều này không những ta góp phần đổi mới cuộc sống mà ta còn phát huy tính sáng tạo ngày càng cao để phục vụ đời sống con người, đưa đất nước tiến vào hội nhập và phát triển cùng thế giới. . Nghị luận xã hội về lý thuyết và thực hành Từ xưa đến nay, mỗi quan hệ giữa lí thuyết và thực hành trở thành quan tâm của mọi người. Xuất phát từ thực tế của một nền kinh. Bởi có " ;thực hành& quot; nào không cần đến "lí thuyết& quot; đâu. Có nắm vững lí thuyết ta mới thực hành dễ và đạt kết quả cao. Lí thuyết chỉ đạo cho thực hành, và thực hành là để nghiệm. phải kết hợp tác hai chiều giữa lí thuyết và thực hành. Ta cũng nên hiểu rằng có học mà người thực hành chỉ là lí thuyết suông. Thực hành mà không biết lí thuyết thì việc gì cũng gặp khó khăn. - Xem thêm -Xem thêm Nghị luận xã hội về lý thuyết và thực hành, Nghị luận xã hội về lý thuyết và thực hành, Từ khóa liên quan nghị luận xã hội về ý chí và nghị lực sống nghị luận xã hội về lý tưởng nghị luận xã hội về lý tưởng sống nghị luận xã hội về cá nhân và tập thể nghị luận xã hội về cảm ơn và xin lỗi dàn ý nghị luận xã hội về lý tưởng sống nghị luận xã hội về văn học và tình thương nghi luan xa hoi ve tien bac va hanh phuc nghi luan xa hoi ve tien tai va hanh phuc van nghi luan xa hoi ve trang phuc va van hoa nghị luận xã hội về lý tưởng của thanh niên nghi luan xa hoi ve moi truong va ve an toan giao thong nghị luận xã hội về tiền bạc và tầm quan trọng của đồng tiền nghi luan xa hoi ve ly tuong song cua thanh nien thoi dai hien nay nghị luận xã hội về tuổi tre và tuong lai xác định các nguyên tắc biên soạn khảo sát các chuẩn giảng dạy tiếng nhật từ góc độ lí thuyết và thực tiễn khảo sát chương trình đào tạo của các đơn vị đào tạo tại nhật bản xác định thời lượng học về mặt lí thuyết và thực tế điều tra đối với đối tượng giảng viên và đối tượng quản lí nội dung cụ thể cho từng kĩ năng ở từng cấp độ mở máy động cơ lồng sóc phần 3 giới thiệu nguyên liệu từ bảng 3 1 ta thấy ngoài hai thành phần chủ yếu và chiếm tỷ lệ cao nhất là tinh bột và cacbonhydrat trong hạt gạo tẻ còn chứa đường cellulose hemicellulose chỉ tiêu chất lượng 9 tr 25 Theo dõi giáo dục cung cấp đào tạo lý thuyết và thực hành vững chắc để chuẩn bị cho bạn giảng dạy ngôn ngữ thứ hai ở Hoa Kỳ hoặc nước education track offers solid theoretical and practical training to prepare you for the teaching of second languages in the United States or phần đầu của quyển sách tập trung vào lý thuyết và thực hành của việc định giá các công cụ phái sinh tín had to sit 14 exams, alternating between learning theory and practical flying at Kavala International Airport every three chương trình này sẽ cung Perl và Python và Ruby on Rails. pháp Ayuryeda cổ truyền, và cũng kết hợp một vài nguyên tắc y học truyền thống của Trung also include few principles of Traditional Chinese ngành này nhằm cung cấp cho sinh viên kiến thức hiện tại về lý thuyết và thực hành về truyền thôngvà truyền thông từ góc độ liên major aims to provide students with current knowledge of theories and practices of media and communication from an interdisciplinary chương trình của Master này, bạn sẽ có được kiến thức chuyên sâu vàDuring this Master's programme, you will acquire in-depth knowledge and pháp Ayuryeda cổ truyền, và cũng kết hợp một vài nguyên tắc y học truyền thống của Trung also includes principles of traditional Chinese enjoyed cutting-edge technology and a good balance between theory and practical experience.". pháp Ayuryeda cổ truyền, và cũng kết hợp một vài nguyên tắc y học truyền thống của Trung include a few principles of the traditional Chinese system of phải ít nhất 18 tuổi,To gain this you mustThể hiện sự đánh giá cao về các vấn đề văn hóa, đạo đức,Demonstrate an appreciation of cultural, ethical,Ngoài những buổi chuyên đề hàng ngày chia sẻ lý thuyết và thực hành thiền định, bạn sẽ được tham gia hai lớp tập Yoga mỗi các công cụ để quản lý thông tin liên lạc với các tập hợp rộng và đa dạng của các bên liên tools to manage communication with the wide and diverse range of đã áp dụng kiến thức tinh thông lý thuyết và thực hành về hóa học và vật lý học của mình vào những vấn đề khác giải thưởng riêng đặc biệt đượcdành cho những thí sinh có được điểm số tốt nhất trong các phần thi lý thuyết và thực separate special awards areCác hệ thống y tế thay thế đượcMedical Systems medicalCác Thạc sĩ Hệ thống quản lý động chuyên nhân Khoa học Bằng cấp trong Truyền thông trong Media sản xuất cung tiện truyền Bachelor of ScienceDegree in Communications in Media Production provides a theoretical and practical preparation of content production for the media. NGUYỄN HOÀI NGUYÊNTHỰC HÀNHVĂN BẢN TIẾNG VIỆTNGHỆ AN, 2012MỤC LỤCChương 1. Khái quát về tiếng Việt và bộ môn Thực hành văn bản tiếng Việt Khái quát về tiếng Việt Tiếng Việt và vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt Vai trò của tiếng Việt Đặc điểm của tiếng Việt Bộ môn Thực hành văn bản tiếng Việt Mục đích, yêu cầu Các nội dung cơ bản của môn học Chương 2. Thực hành phân tích và tạo lập văn bản Khái quát về văn bản Khái niệm và những đặc điểm chính của văn bản Đơn vị văn bản và các loại quan hệ trong văn bản Phân loại văn bản Thực hành phân tích văn bản khoa học Một số vấn đề về phân tích văn bản Thực hành phân tích văn bản khoa học Thực hành tạo lập văn bản thông dụng Một số vấn đề chung Thực hành tạo lập văn bản thông dụng Chương 3. Thực hành phân tích và tạo lập đoạn văn Giản yếu về đoạn văn Khái niệm, đặc điểm Câu chủ đề của đoạn văn Cấu trúc của đoạn văn Lập luận trong đoạn văn Thực hành phân tích đoạn văn Lưu ý khi phân tích đoạn văn Thực hành phân tích đoạn văn Thực hành tạo lập đoạn văn LỜI GIỚI THIỆUHiện nay, trong khung chương trình đào tạo của một số trường đại học, môn Thực hành văn bản tiếng Việt hay Tiếng Việt thực hành , có thể là một môn bắt buộc, có thể là một môn tự chọn. Dù xây dựng chương trình theo hướng nào, thì có một một thực tế đặt ra nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt trong giap tiếp và học tập cho sinh viên là một công việc không thể xem nhẹ. Đối với những sinh viên theo học các ngành khoa học xã hội và nhân văn, tri thức tiếng Việt là một phần quan trọng không chỉ trong quá trình học tập các bộ môn ở trường đại học mà còn là hành trang gắn với nghề nghiệp được đào tạo. Với sinh viên các khoa thuộc khoa học tự nhiên – kỹ thuật – công nghệ, các kĩ năng tiếng Việt cũng không hề xa lạ, bởi tiếp nhận và tạo lập các văn bản khoa học là công việc phải tiến hành thường xuyên. Xuất phát từ thực tế đó, tiến sĩ Nguyễn Hoài Nguyên đã biên soạn giáo trình Thực hành văn bản tiếng Việt. Giáo trình được triển khai trong 5 chương, trình bày theo hướng đi từ văn bản – đơn vị giao tiếp – đến các đơn vị bộ phận như đoạn văn , câu , từ ngữ , chữ viết và chính tả. Với mỗi chương, tác giả trình bày những vấn đề lí thuyết cơ bản, ngắn gọn, cô đúc và làm sáng tỏ các luận điểm lý thuyết bằng việc phân tích những ngữ liệu cụ thể, phù hợp. Bài tập trên lớp và bài tập về nhà của từng chương là những phần thiết yếu, giúp người học không những củng cố tri thức, mà quan trọng hơn, có thể tự thực hành các kỹ năng, đáp ứng các yêu cầu về sử dụng tiếng Việt. Việc phân bố thời gian học trên lớp gồm lý thuyết và thực hành và học ở nhà ôn tập lý thuyết và làm bài tập là sự định hướng hết sức cần thiết để người học có kế hoạch thực hiện chương trình, đáp ứng yêu cầu học tập theo học chế tín chỉ. Biên soạn giáo trình này, người viết ít nhiều có sự kế thừa kinh nghiệm của những người đi trước tác giả của những cuốn Tiếng Việt thực hành từng được in ấn và phát hành thời gian qua. Tuy nhiên, với mục đích và đối tượng được xác định cụ thể, giáo trình này chắc chắn sẽ là học liệu cần thiết cho sinh viên, đặc biệt là sinh viên các ngành khoa học xã hội và nhân văn, đồng thời là tài liệu tham khảo hữu ích cho những giáo viên dạy thực hành tiếng Việt trong nhà trường. Xin trân trọng giới thiệu cuốn Thực hành văn bản tiếng Việt của tiến sĩ Nguyễn Hoài Nguyên với độc giả. TS. Đặng Lưu Giảng viên bộ môn Ngôn ngữ Khoa Ngữ văn, Trường đại học VinhChương 1. KHÁI QUÁT VỀ TIẾNG VIỆT VÀ BỘ MÔN THỰC HÀNH VĂN BẢN TIẾNG VIỆT1. KHÁI QUÁT VỀ TIẾNG VIỆT1. Tiếng Việt và vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt Cuộc sống của con người luôn gắn với hoạt động giao tiếp, trong đó, ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng bậc nhất. Thế nhưng, chúng ta chưa hiểu chính xác là đã nắm được ngôn ngữ như thế nào, đã nhận thức thế giới nhờ ngôn ngữ ra sao. Ngôn ngữ đến với mỗi người bình thường, tự nhiên đến mức ít ai tự hỏi ngôn ngữ là gì. Ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu âm thanh đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong một cộng đồng người; đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, lưu trữ và truyền đạt truyền thống lịch sử - văn hóa của một cộng đồng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nói đến ngôn ngữ là nói đến các ngôn ngữ cụ thể của các dân tộc với tư cách là phương tiện giao tiếp, chẳng hạn tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Việt , v.. Tiếng Việt là ngôn ngữ của người Việt còn gọi người Kinh, là tiếng phổ thông của các dân tộc thiểu số và là ngôn ngữ quốc gia Việt Nam. Tiếng Việt của chúng ta giàu và đẹp. Tiếng Việt rất giàu, bởi nó thể hiện đời sống muôn màu, đời sống tư tưởng và tình cảm phong phú của dân tộc ta; bởi nó phản ánh kinh nghiệm đấu tranh xã hội, đấu tranh với thiên nhiên và đấu tranh chống ngoại xâm suốt hàng nghìn năm lịch sử. Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp, bởi là thứ tiếng có nhiều nguyên âm và thanh điệu nên rất mềm mại, uyển chuyển, du dương nói mà như hát. Tiếng ta đẹp còn bởi có lớp từ láy, các tổ hợp từ cố định thành ngữ thể hiện sự đăng đối, hài hòa, gợi hình, gợi cảm. Tiếng ta đẹp bởi vì tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp, bởi cuộc sống của nhân dân ta từ ngàn xưa tới nay là cao quý. Vẻ giàu đẹp của tiếng Việt được khúc xạ trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng nhân dân, trong các thành ngữ, tục ngữ, ca dao, trong các áng văn chương của những nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Chẳng hạn Hỡi cô tát nước bên đàng // Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi Ca dao; hay Long lanh đáy nước in trời // Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng Nguyễn Du - Truyện Kiều. Tiếng Việt hiện nay, nhìn chung, có thể diễn tảc. Phục vụ công tác hành chính - pháp luật Chức năng phục vụ công tác hành chính - pháp luật của tiếng Việt cũng được mở rộng gấp nhiều lần so với trước. Tất cả các văn bản pháp quy hiến pháp, các bộ luật, pháp lệnh, quyết định, nghị định, chỉ thị, thông tư, công văn, báo cáo, v., mọi sự thảo luận, công bố từ Quốc hội, Chính phủ đến hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp, từ Trung ương đến địa phương đều được soạn thảo bằng tiếng Việt. d. Tiếng phổ thông cho các dân tộc thiểu số Trước đây, tiếng Việt được các dân tộc thiểu số biết đến nhưng trong phạm vi hẹp. Từ sau năm 1945, Việt Nam là quốc gia gồm 54 dân tộc anh em cùng chung vận mệnh, cùng chung mục tiêu phấn đấu nên sự giao lưu, tiếp xúc giữa các dân tộc ít người với dân tộc Việt Kinh, giữa các dân tộc ít người với nhau chặt chẽ hơn các thời kì trước. Thêm nữa, chính sách ngôn ngữ của Đảng và Nhà nước hết sức đúng đắn, đó là chính sách bình đẳng và tự nguyện. Do đó, thực tế, các dân tộc ít người vừa sử dụng tiếng mẹ đẻ của mình, vừa tự nguyện dùng tiếng Việt để giao tiếp. Như vậy, chức năng xã hội của tiếng Việt được mở rộng thêm làm công cụ giao tiếp của tất cả các dân tộc sống chung trên lãnh thổ Việt Nam. Tiếng Việt có điều kiện ảnh hưởng tới sự phát triển của ngôn ngữ các dân tộc thiểu số. e. Chất liệu của sáng tạo nghệ thuật Trước cách mạng, nền văn học Việt Nam thực sự phát triển song đó là một nền văn học chưa thực sự mang tính dân tộc. Các tác phẩm văn chương vừa được sáng tác bằng chất liệu tiếng Việt văn học dân gian, các tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, v., vừa bằng ngôn ngữ xa lạ với ngôn ngữ quần chúng tiếng Hán - Việt, chữ Hán. Sau cách mạng, một nền văn học mới đã hình thành. Nó phản ánh cuộc sống muôn màu muôn vẻ, khắc họa những hình tượng sâu sắc bằng chất liệu tiếng Việt. Vì thế, tiếng Việt - yếu tố thứ nhất của văn học - đã trở thành một ngôn ngữ toàn năng của một nền văn học đa dạng, phong phú, hiện đại. g. Công cụ truyền thông, xuất bản Dưới chế độ cũ, báo chí truyền thông, xuất bản có phần xa lạ đối với quần chúng nhân dân. Từ sau cách mạng, sự nghiệp báo chí, truyền thông đại chúng và xuất bản bằng tiếng Việt đã phát triển mạnh mẽ. Do đó, tiếng Việt mở rộng thêm chức năng xã hội làm công cụ của công tác thông tin đại chúng, phát triển sự nghiệp báo chí và xuất bản. Thể hiện nếp nghĩ, tình cảm, tâm hồn dân tộc a. Tiếng Việt thể hiện cách nghĩ, cách cảm của người Việt NamSuy nghĩ của mỗi người bao giờ cũng xuất phát từ ngôn ngữ, do ngôn ngữ mẹ đẻ quyết định. Tiếng Việt ngày nay có thể biểu đạt đầy đủ các giá trị tinh thần của một dân tộc đã đạt tới trình độ văn hóa tương đối cao, có khả năng ảnh hưởng tới văn hóa của một số dân tộc khác. Tiếng Việt là một ngôn ngữ phát triển hoàn thiện vì nó thỏa mãn mọi nhu cầu giao tiếp xã hội, thể hiện một cách sâu sắc nếp nghĩ, cách cảm, khát vọng của con người Việt Nam. Có thể thấy rõ điều đó trong các sáng tác dân gian như tục ngữ, ca dao, hò vè, v. hoặc trong các tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ. Đó chính là lời ăn tiếng nói của nhân dân kết tinh từ bao đời, thể hiện trí tuệ và tâm hồn của người Việt. b. Tiếng Việt chứa đựng văn hóa dân tộc Ngôn ngữ là một thành tố của văn hóa, nhưng đồng thời cũng là địa chỉ của văn hóa. Thực tế, tiếng Việt thể hiện đậm nét bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Cuộc sống, lịch sử, kiểu lựa chọn của cộng đồng trong tất cả các lĩnh vực xã hội đều được khúc xạ trong tiếng Việt, qua các bình diện ngữ âm giàu nhạc tính, từ vựng đa dạng, phong phú, mở, ngữ pháp mềm dẻo, linh hoạt. 1. Đặc điểm cơ bản của tiếng Việt Tiếng Việt là ngôn ngữ âm tiết tính, đa thanh điệu a. Đặc điểm âm tiết tính được thể hiện ở các khía cạnh sau Trong dòng âm thanh, các âm tiết được phát âm thành những khúc đoạn riêng rẽ, tách bạch có đường ranh giới dứt khoát, rõ ràng, không đọc nối như tiếng Nga, tiếng Anh, v.. Còn khi viết, các âm tiết được viết rời giữa các con chữ ghi âm tiết có khoảng cách đều nhau, không viết liền. So sánh từ sinh viên, trong tiếng Việt, đọc/ phát âm rời thành hai đoạn âm sinh / viên và viết rời; trong tiếng Anh, cũng hai âm tiết nhưng đọc/ phát âm nối liền, viết liền student. Âm tiết tiếng Việt, phần lớn trùng với đơn vị nhỏ nhất mà có nghĩa, tức hình vị; đồng thời, những đơn vị ấy có thể vận dụng độc lập để đặt câu, nghĩa là ranh giới âm tiết, hình vị và từ đơn tiết trùng nhau ví dụ nhà, xe, ăn , học, tốt, xấu, v .. Do vậy, âm tiết, còn gọi là tiếng, vừa có thể là từ nên có tính tự lập. So sánh tiếng Việt cậu / bé hai âm tiết = 2 hình vị; tiếng Anh boy / s và [b฀jz] 2 hình vị, 1 âm tiết. b. Tiếng Việt là ngôn ngữ có thanh điệu, gồm 6 thanh tiếng Lào có 5 thanh, tiếng Hán 4 thanh, tiếng Miến Điện 3 thanh. Ví dụ ma, mà, mã, mả, má, mạ. Thanh điệu là đặc trưng độ cao và có tác dụng khu biệt nghĩa cho các âm tiết, góp phần quan trọng làm nên nhạc tính cho tiếng Việt. Yêu cầu Người học có thái độ học tập đúng đắn, nắm vững mục đích của môn học Thực hành văn bản tiếng Việt để xác định phương pháp học tập phù hợp. Có ý thức tự giác, nghiêm túc rèn luyện kĩ năng thực hành phân tích và tạo lập văn bản thuộc các phong cách ngôn ngữ; thực hiện đầy đủ các nội dung thảo luận và bài tập thực hành trên lớp và ở nhà. Chú trọng rèn luyện kĩ năng phân tích và tạo lập các loại văn bản nhật dụng, văn bản chuyên ngành. Có khả năng phát hiện và sửa chữa các loại lỗi của văn bản. 2. Các nội dung cơ bản của môn học Về nội dung của môn học, ngoài những nội dung chính theo chương trình chung của Bộ giáo dục và đào tạo, giáo trình này, chúng tôi còn chú ý đến những lỗi sử dụng ngôn ngữ mà sinh viên thường hay mắc phải trong việc tiếp nhận và tạo lập văn bản. Ngoài chương 1 trình bày những kiến thức nhập môn, các nội dung chính trình bày trong bốn chương tiếp theo Chương 2. Thực hành phân tích và tạo lập văn bản , trình bày giản yếu về văn bản khái niệm, đặc trưng, các loại văn bản; trọng tâm thực hành là kĩ năng phân tích và tạo lập văn bản, chú trọng văn bản hành chính và văn bản khoa học. Chương 3. Thực hành phân tích và xây dựng đoạn văn , thuyết minh vắn tắt lí thuyết đoạn văn khái niệm, cấu trúc, câu chủ đề, các loại đoạn văn; tập trung cho việc rèn luyện kĩ năng tổ chức đoạn và liên kết đoạn. Chương 4. Luyện câu trong văn bản , trình bày sơ lược lí thuyết về câu các loại câu về cấu trúc và mục đích giao tiếp, câu và phát ngôn, biến đổi câu; rèn luyện viết câu trong văn bản, phát hiện lỗi và sửa chữa câu sai. Chương 5. Rèn luyện dùng từ và chính tả , tập trung rèn luyện các thao tác dùng từ lựa chọn, thay thế; rèn luyện viết đúng chính tả trong văn bản; phát hiện và sửa chữa các lỗi dùng từ và chính tả. **CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THỰC HÀNH Phần thảo luận và thực hành trên lớp** Tại sao nói Việt Nam là quốc gia đa dân tộc và đa ngôn ngữ? Nêu vị thế của tiếng Việt trong các ngôn ngữ trên lãnh thổ Việt Nam. Trình bày vai trò của tiếng Việt. Liên hệ việc sử dụng tiếng Việt trong nói/ viết hàng ngày của bản thân. Phân tích các đặc điểm cơ bản của tiếng Việt có dẫn chứng minh họa. Phân tích và chứng minh câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, bảo vệ nó, làm cho nó phát triển ngày càng rộng khắp. Trình bày cách hiểu của anh/ chị về câu Lời nói chẳng mất tiền mua / Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Nêu những câu tục ngữ, ca dao, châm ngôn, những thành ngữ nói về ngôn ngữ và việc sử dụng ngôn ngữ. *** Phần tự học ở nhà** Nêu nhận thức của anh/ chị về bộ môn Thực hành văn bản tiếng Việt. Những định hướng của anh/ chị khi học bộ môn này. Đọc các văn bản/ đoạn trích sau đây để cảm nhận tiếng Việt giàu đẹp, có bản sắc riêng. a. Đồng đăng có phố Kì Lừa , Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh. Ai lên xứ Lạng cùng anh, Bõ công bác mẹ sinh thành ra em. Tay cầm bầu rượu, nắm nem, Mảng vui quên hết lời em dặn dò Ca daob. KIỀU TIỄN BIỆT THÚC SINH Người lên ngựa, kẻ chia bào Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san Dặm hồng bụi cuốn chinh an Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh Người về chiếc bóng năm canh Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi Vầng trăng ai xẻ làm đôi Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường! Nguyễn Du - Truyện KiềuÔi nàng năm xưa quên lời thề Hoa vừa đương hương gây đê mêCây đàn yêu đương làm bằng thơ Dây đàn yêu đương run trong mơ Hồn về trên môi kêu em ơi Thuyền hồn không đi lên chơi vơiTôi qua tim nàng vay du dương Tôi mang lên lầu lên cung thương Ôi tôi bao giờ thôi yêu nàng Tình tang tôi nghe như tình langYêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi Tìm đâu đào nguyên cho xa xôi Đào nguyên trong lòng nàng đây thôiThu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu Sao tôi không màng kêu em yêu Trăng nay không nàng như trăng thiu Đêm nay không nàng như đêm hiuBuồn lưu cây đào xin hơi xuân Buồn sang cây tùng thăm đông quân Ô hay buồn vương cây ngô đồng Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mônge. CÁT ĐỢI Nguyễn Việt Chiến Cát chiều nay sẫm bên sông Thương con đò ngược mùa đông chưa vềLối mòn bạc cỏ chân đê Chiều mòn rỗng tiếng chim gì kêu đau Sóng đem từ bến sông nào Theo trăng về thức dưới màu mây xưa Tôi hoang vu, cát hoang vu Trăng là người khách qua đò đêm nay Cô đơn xuống một đò đầy Tôi chờ em phía bên này mùa đông Cát còn bay trắng bên sông Người còn đi trắng mùa mong ước này Tôi cầm hạt cát trên tay Đêm không còn ấm như ngày có em Tôi cầm cả chính tôi lên Câu thơ nhặt được phía miền quạnh hiu Câu thơ như cát mỗi chiều Mang theo chút ấm nắng nghèo vào đêmPHẦN HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 1 1. Tài liệu cần đọc 1 Phan Mậu Cảnh, Hoàng Trọng Canh, Nguyễn Văn Nguyên, Tiếng Việt thực hành , Nxb Nghệ An, 2009, từ trang 7 đến trang 13. 2 Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng, Tiếng Việt thực hành , Nxb Giáo dục, H. 1997, từ trang 8 đến trang 21. 2. Nội dung trọng tâm cần nắm - Vai trò và các đặc điểm cơ bản của tiếng Việt. - Mục đích, yêu cầu và nội dung chương trình môn học 3. Cách tổ chức học - Trên lớp nghe giảng, thảo luận nhóm các nội dung thảo luận thực hành tại lớp. - Tự học làm các bài tập ở cuối bài hiểu các ví dụ trên, ta thấy ở mỗi chuỗi câu đều có nhiều câu; mỗi câu trong đó đều có nghĩa, thể hiện một thông báo nhất định; các câu đều đúng ngữ pháp. Nhưng hai chuỗi câu trên có nhiều điểm khác nhau ở 1 là chuỗi câu, trong đó, mỗi câu diễn đạt một ý nhưng các ý lan man không tạo nên thông tin hoàn chỉnh; còn ở 2 là chuỗi câu, mỗi câu là một ý nhưng các ý liên quan với nhau, đều hướng đến một nội dung khái quát tạo nên một thông tin trọn vẹn, logic. Còn nữa, ở 1 chưa có hình thức hoàn chỉnh, chỉ là một tập hợp câu đứng cạnh nhau; trong khi đó, ở 2 có hình thức rõ ràng, mạch lạc và hoàn chỉnh có tiêu đề, có phần mở, phần thân và phần kết. Chuỗi 2 có thể dùng để giao tiếp mà không một điều kiện nào khác. Có thể xem chuỗi 2 là một văn bản. Như vậy, các câu đúng và độ dài không phải là điều kiện quyết định một chuỗi câu nào đó thành văn bản. Văn bản phải là một tập hợp câu kết hợp theo một phương thức nhất định nhằm xác lập một thông tin trọn vẹn. b. Định nghĩa văn bản Hiện tại, khái niệm văn bản được hiểu theo nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, văn bản chỉ sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ ở cả hai hình thức nói và viết; còn theo nghĩa hẹp, văn bản chỉ sản phẩm giao tiếp bằng ngôn ngữ tồn tại ở dạng viết. Liên quan đến văn bản còn có các khái niệm ngôn bản, diễn ngôn, v.. Có thể định nghĩa văn bản như sau Văn bản là sản phẩm hoàn chỉnh của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, chủ yếu tồn tại ở dạng viết, thường là một tập hợp câu có tính liên kết chặt chẽ, trọn vẹn về nội dung, hoàn chỉnh về hình thức, độc lập trong giao tiếp và có một hướng đích nhất định. Những đặc điểm chính của văn bản a. Tính trọn vẹn về nội dung, hoàn chỉnh về hình thức Văn bản là một thể thống nhất hoàn chỉnh về nội dung và hình thức. Về nội dung, văn bản là đơn vị lời nói có nội dung thông tin trọn vẹn làm cho người khác hiểu được một sự việc, một tư tưởng hay một tình cảm nào đó, tức là có tính nhất quán về chủ đề. Về hình thức, văn bản có kết cấu hoàn chỉnh gồm tiêu đề, các phần mở đầu, triển khai và kết thúc; có hàng loạt các dấu hiệu liên kết ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, v. để biểu thị mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau giữa các tạo tố, các thành tố, các phần trong tính chính thể văn bản. b. Tính liên kết chặt chẽ, mạch lạc Liên kết chỉ có ở cấp độ văn bản, là thuộc tính đặc thù của văn bản. Liên kết, đó là mạng lưới các mối quan hệ qua lại giữa các câu, các đoạn, các phần của văn bản. Liên kết văn bảnthể hiện ở hai mặt liên kết nội dung và liên kết hình thức. Liên kết nội dung là mạng lưới liên hệ về logic và ngữ nghĩa giữa các câu, các đoạn, các phần hướng về cùng một chủ đề. Nếu không có liên kết nội dung thì văn bản sẽ mắc lỗi chủ đề, hoặc lỗi logic. Liên kết hình thức là sử dụng các phương thức và phương tiện ngôn ngữ để gắn các câu thành đoạn, các đoạn thành các phần, các phần thành văn bản. Liên kết hình thức là để phục vụ liên kết nội dung. c. Tính hướng đích Mỗi văn bản đều hướng tới một mục đích nhất định. Mục đích của văn bản có thể được bộc lộ một cách trực tiếp thông tin hiển ngôn, hoặc gián tiếp thông tin hàm ngôn. Cách bộc lộ trực tiếp và/hoặc gián tiếp chi phối cách tổ chức văn bản việc chọn và cách thức tổ chức các chất liệu nội dung, việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ. 1. Đơn vị của văn bản và các loại quan hệ trong văn bản Đơn vị của văn bản Không tính đến các văn bản đặc biệt kiểu như Uống nước nhớ nguồn tục ngữ, Hỡi cô tát nước bên đàng // Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ca dao, hoặc các văn bản có độ dài gồm nhiều tập sách, như Những người khốn khổ tiểu thuyết, 4 tập v. thì văn bản là một cấu trúc gồm các tổ hợp đoạn, mục, chương, phần , trong đó, tổ hợp đoạn có tính thông dụng và định hình nhất. Ở dạng nói, đoạn được gọi là đoạn lời, còn ở dạng viết, đoạn được gọi là đoạn văn. Nhiều nhà nghiên cứu ngữ pháp văn bản cho rằng đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo lập văn bản, vừa phụ thuộc vừa có tính độc lập trong cấu trúc văn bản. Các loại quan hệ của văn bản a. Quan hệ hướng nội Quan hệ hướng nội là quan hệ trong nội tại văn bản. Đó là quan hệ giữa các câu, các đoạn, các phần, quan hệ giữa các thành tố nội dung chi tiết với các chủ đề bộ phận và giữa các chủ đề bộ phận với chủ đề văn bản. Tìm hiểu ví dụ sau BIỂN ĐẸP 1 Biển nhiều khi cũng đẹp, một vẻ đẹp nồng nàn, đắm say. Nếu chú ý quan sát, ta sẽ lí giải được vì sao biển đẹp. 2 Buổi sớm nắng sáng, những cánh buồm nâu trên biển được nắng chiếu vào, hồng rực lên như đàn bướm múa lượn giữa trời xanh. Bọt sóng trắng xóa mênh mông. Có buổi sớm nắng mờ, biển bốc hơi nước, không nom thấy núi xa, chỉ một màu trắng đục. Không có thuyền, không có sóng, không có mây, không có sắc biếc của da và giữa các cơ quan nhà nước với nhân dân, giữa các tổ chức với nhau, và với nhân dân, v. Các loại văn bản hành chính gồm văn bản quy phạm pháp luật hiến pháp, các bộ luật, nghị định, chỉ chị, thông tư, v., văn bản chuyên môn gắn với các lĩnh vực, các ngành, văn bản hành chính thông thường đơn từ, biên bản, đề án, hợp đồng, báo cáo, công văn, văn bằng, chứng chỉ, v.. Đặc điểm cơ bản của văn bản hành chính tính quy phạm, khuôn mẫu; tính chính xác, minh bạch và nghiêm túc; tính hiệu lực cao. Đặc điểm ngôn ngữ Về từ ngữ, sử dụng phổ biến các danh từ riêng, các tổ hợp từ chỉ tên riêng chỉ người, tổ chức, địa danh, tên người gọi theo chức trách trong quan hệ hành chính - công vụ, v.; sử dụng thường xuyên các quán ngữ, những từ ngữ thuộc thể thức công vụ; sử dụng phổ biến lớp từ Hán-Việt. Từ ngữ được sử dụng đòi hỏi chính xác, chặt chẽ, đơn nghĩa, trung hòa biểu cảm. Về cú pháp và diễn đạt, chỉ sử dụng câu tường thuật và câu cầu khiến; có thể sử dụng kết hợp câu đơn và câu phức, dùng câu không đầy đủ thành phần ngữ pháp; có thể có những quy định về chữ viết, cách bố trí văn bản. Văn bản hành chính thường trình bày theo lối diễn dịch, hoặc quy nạp. b. Văn bản khoa học Văn bản khoa học là những văn bản phản ánh hoạt động trí tuệ, nhận thức, có chức năng chủ yếu là thông báo và chứng minh, dùng trong lĩnh vực hoạt động khoa học. Các loại văn bản khoa học gồm các văn bản chuyên sâu công trình khoa học, chuyên luận, luận án, luận văn, v.; các văn bản giáo khoa giáo trình, sách giáo khoa, tài liệu dạy học, tài liệu tham khảo trong nhà trường, v.; các văn bản phổ cập khoa học bài báo, tài liệu phổ biến, thông báo khoa học, v.. Đặc điểm của văn bản khoa học Văn bản khoa học có tính trừu tượng - khái quát, bởi chức năng của nó là thông báo, chứng minh chân lí, những tính quy luật phát hiện bằng tư duy khoa học. Văn bản khoa học còn có tính chính xác - khách quan và tính logíc nghiêm ngặt duy lí vì nó được xây dựng bằng những phán đoán, suy lí chính xác, logíc. Đặc điểm ngôn ngữ Về từ ngữ, các từ ngữ có nghĩa chính xác, đơn nghĩa, trung hòa về biểu cảm; sử dụng nhiều thuật ngữ chuyên ngành, những từ công cụ, từ có nghĩa trừu tượng. Từ loại được dùng phổ biến là danh từ xu hướng định danh hóa các sự kiện, hoạt động, tính chất, v. và đại từ thường mang ý nghĩa khái quát, dùng chủ yếu ngôi ba và ngôi nhất số nhiều. Về cú pháp, câu văn có kết cấu chặt chẽ, rõ ràng có thể dùng cả câu khuyết chủ ngữ hoặc chủ ngữ không xác định; sử dụng chủ yếu câu tường thuật. Loại câu phức hợp, đặc biệt loại câu ghép chính phụ có các cặp quan hệ từ hô ứng chỉ quan hệ nguyên nhân, nhượng bộ, tăng tiến, v. cũng được sử dụng rộng rãi. Về kết cấu và diễn đạt, văn bản khoa học thường được xây dựng theo một thể thức nghiêm ngặt chẳng hạn, một bài báo có các phần 1/ tính thời sự của vấn đề, 2/ trình bày hệ thống nội dung vấn đề kèm theo phân tích, lí giải, nhận xét, 3/ đưa ra những kết luận hệ quả của phần thứ hai. Diễn đạt trong văn bản khoa học phải mạch lạc, khúc chiết, logíc. c. Văn bản chính luận Văn bản chính luận là loại văn bản trình bày, giải thích, đánh giá, bày tỏ thái độ đối với những vấn đề nảy sinh trong đời sống chính trị - xã hội chiến tranh, hòa bình, lẽ sống, hạnh phúc, lao động, môi trường, v.. Văn bản chính luận có chức năng thông tin, tuyên truyền, thuyết phục, đem lại cho người tiếp nhận một cách nhìn, một thái độ. Các loại văn bản chính luận gồm các văn bản hiệu triệu báo cáo chính trị, cương lĩnh của một tổ chức, tuyên ngôn độc lập, lời kêu gọi, v.; các văn bản bình giá bình luận, xã luận trên các phương tiện truyền thông, các ý kiến tham luận đại hội, hội nghị, mít tinh, v.. Đặc điểm của văn bản chính luận Văn bản chính luận có các đặc điểm là tính bình giá công khai tính khuynh hướng, tính lập luận chặt chẽ thuyết phục người đọc/người nghe bằng những lí lẽ sắc bén, những dẫn chứng xác thực, sắp xếp bằng một trình tự mạch lạc và tính biểu cảm người viết/nói bộc lộ cảm xúc chân thành, sâu sắc qua các cách diễn đạt sinh động, giàu hình ảnh. Đặc điểm ngôn ngữ Về từ ngữ, ngoài lớp từ toàn dân, còn dùng phổ biến lớp từ chính trị, lớp từ có tính chất thuật ngữ của các ngành khoa học; có thể sử dụng lớp từ ngữ giàu màu sắc tu từ từ khẩu ngữ, từ sách vở. Về cú pháp và diễn đạt, dùng nhiều câu tường thuật và câu cầu khiến không dùng câu hỏi và câu cảm thán; kết hợp linh hoạt câu ngắn và câu dài khẳng định, đánh giá dùng câu ngắn, còn trình bày, bàn luận dùng câu dài. Về cách diễn đạt, văn bản chính luận, một mặt, đòi hỏi trình bày vấn đề mạch lạc, logíc, mặt khác, có thể sử dụng các phương tiện biểu cảm so sánh, ẩn dụ, hoán dụ tu từ, v., các biện pháp tu từ lặp cú pháp, sóng đôi, v..

lý thuyết và thực hành